Tiên Kỳ là thị trấn nằm ở trung tâm huyện Tiên Phước, phía Đông giáp xã Tiên Thọ, phía Nam và Tây Nam giáp xã Tiên Cảnh, phái Đông Nam giáp xã Tiên Lộc, phía Bắc giáp xã Tiên Mỹ và phái Tây Bắc giáp xã Tiên Châu. Hiện nay, toàn thị trấn có 11 thôn và 02 khối phố, có 49 tổ đoàn kết gồm các thôn: Phái Đông, Phái Nam, Phái Tây, Phái Bắc, Bình Yên, Bình An, Phước An, An Trung, An Đông, An Tây, Sơn Yên và hai khối phố là Tiên Bình và Bình Phước.
Thị trấn Tiên Kỳ - Tiên Phước
Tổng diện tích tự nhiên là 837,89 hà; trong đó: Đất nông nghiệp: 627,56 ha (Đất sản xuất nông nghiệp: 535,27 ha; Đất lâm nghiệp: 90,65 ha). Đất phi nông nghiệp: 208,01 hà. Đất chưa sử dụng: 2,32 ha. Là thị trấn trung du miền núi, có địa hình cao về hướng Đông và Đông Bắc (đồi Dương ươi, Gò mè, Động sinh, đồi 211, Đường Sửu), thấp dần về hướng Tây - Tây nam (Sông Tiền, sông Bồng Miêu), hình thành 2 dạng địa hình là đồi gò và vùng đất bằng, bậc thang. Diện tích đất trồng rừng sản xuất 90,65 ha, trong đó rừng trồng cây thông nhựa diện tích 23,1 ha đã được đưa vào nuôi dưỡng và khai thác nhựa, diện tích còn lại chủ yếu trồng cây keo.
Đẩy mạnh công cuộc đổi mới của Đảng, phát huy mạnh mẽ tiềm năng các thành phần kinh tế, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, đặc biệt là phát huy nhân tố con người, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, chuyển dịch cơ cấu CN-TTCN, thương mại, dịch vụ, xây dựng và nông nghiệp với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, tập trung phát triển đồng bộ hạ tầng kinh tế – xã hội, ổn định và cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; tiếp tục nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Quốc phòng – an ninh luôn được giữ vững. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác chỉ đạo điều hành của chính quyền địa phương. Đổi mới nội dung phương thức, nâng cao chất lượng hoạt động Mặt trận, các đoàn thể chính trị xã hội và nhân dân. Thực hiện có hiệu quả cuộc vận động, xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng bộ thực sự trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ của thời kỳ mới.
Đảng uỷ - UBND thị trấn Tiên Kỳ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển toàn diện theo hướng bền vững. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con vật nuôi theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả; hướng dẫn cho nhân dân áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; năng suất cây lúa từ 45,5 tạ/ha/vụ (năm 2010) lên 47,5 tạ/ha (năm 2014), năm 2015 là 49,4 tạ/ha, vượt 3,9 tạ/ha so với chỉ tiêu đề ra; tổng sản lượng lương thực 4.133,3 tấn, bình quân mỗi năm đạt 1.377,8 tấn, vượt chỉ tiêu (1.075 tấn). Sản lượng cây hoa màu ước đạt 1.163 tấn/năm, tương đương giá trị sản xuất bình quân mỗi năm là 1.089 triệu đồng; tổng đàn gia súc tuy có giảm nhưng nhờ tiếp thu kỹ thuật, rút ngắn thời gian nuôi nên sản lượng thịt hơi tăng hơn trước, đàn gia súc năm 2010: 2065 con; năm 2014: 1840 con, năm 2015: 1.477 con/1470 con đạt 100,5% kế hoạch; Tuy nhiên năm 2016, tổng sản lượng lương thực có hạt: 1.023,1 tấn, đạt 85,3% KH, giảm 177 tấn so với cùng kỳ năm 2015. Công tác phòng chống dịch bệnh triển khai kịp thời, không để dịch bệnh nguy hiểm xảy ra trên đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn.
- Về phát triển Kinh tế vườn-KTTT: Trồng mới cây tiêu Tiên Phước được 1.810 choái (tương ứng 2 ha). Nâng diện tích tiêu hiện có đến nay là 3,2 ha. Trong đó có 8 mô hình trên 100 choái. Trồng mới cây măng cụt được 180 cây (tương ứng 1,5 ha). Nâng tổng diện tích cây măng cụt toàn thị trấn lên hiện nay là 6 ha. Trồng mới cây lòn bon 02 ha. Nâng diện tích hiện có đến nay là 36 ha. Trồng mới nhóm cây dó, chuối, quế, cau : 0,4 ha. Hiện nay các hộ tập trung chăm sóc để cây sinh trưởng phát triển. Thực hiện chỉnh trang vườn nhà xanh-sạch-đẹp-hiệu quả được 03 mô hình, đến nay một số mô hình phát triển điển hình như: ÔngThái Nguyên Khoa ở tại thôn Phái Đông, ông Huỳnh Đức Huệ, thôn Phái Bắc. Nâng giá trị sản lượng hàng hóa kinh tế vườn từ năm 2012: 10,5 tỷ đồng đến cuối năm 2016 ước đạt 12 tỷ đồng theo giá thực tế, chiếm 25 % so với tổng giá trị sản xuất nông lâm nghiệp hiện nay.
- Chăn nuôi:Thực hiện theo cơ chế hỗ trợ của nghị quyết số 19 của HĐND huyện, Quyết định số 35 của UBND tỉnh: Hỗ trợ trại heo đực giống ngoại số lượng 03 con, mỗi năm trại cung ứng trên1.080 liều tinh heo ngoại cho nông dân trong huyện; Hỗ trợ trên 180 liều tinh bò ngoại cho công tác phối tinh nhân tạo.Tỷ lệ bò lai hiện nay chiếm 45,3 % tổng đàn.Trong 4 năm từ 2012-2015 số lượng con gia súc được hỗ trợ nuôi mới: Heo đực giống ngoại: 03 con, heo nái sinh sản F1: 40 con, heo nái ngoại 20 con. Đến nay các hộ chăn nuôi tiếp tục duy trì, tăng số lượng và phát huy hiệu quả từ đó góp phần nhân rộng mô hình, tăng số hộ nuôi heo nái sinh sản FI, tăng số lượng chất lượng đàn heo trên địa bàn thị trấn.
Hiện có mô hình chăn nuôi heo, gà theo quy mô gia trại như: Ông Phan Thanh Phước, thôn Phái Đông có 20 heo nái ngoại và 60 heo thịt, ông Võ Văn Châu, thôn Phái Tây có 10 heo nái F1, 70 heo thịt, ông Trần Văn Thọ Thôn Sơn yên 6 heo nái F1và 40 heo thịt, bà Nguyễn Thị Kỳ, thôn An Tây có 9 heo nái F1 và 30 heo thịt, ông Võ Linh Hoạt thôn Phái Đông có trên 1000 con gà thả vườn, ông Dương Văn Điệu thôn Bình An, ông Nguyễn Hữu Tuân thôn Phái Đông có trên 500 con gà thả vườn….Nâng giá trị ngành chăn nuôi của thị trấn tăng từ 12 tỉ đồng (2012), đến 2016 ước đạt 19,6 tỉ đồng, chiếm 40% tổng giá trị sản xuất nông lâm nghiệp; Tỷ lệ tiêm phòng gia súc bình quân 5 năm(2012-2016) đạt 72,6 %/năm (đối với trâu bò); 75,7%/năm (đối với heo). Hỗ trợ xây dựng trên 18 hầm Biogas gia đình theo mức hỗ trợ 3 triệu đồng/ hầm.
Đẩy mạnh chương trình trồng rừng gắn với việc bảo vệ, tái sinh rừng, tăng độ che phủ rừng; nhân dân đã trồng rừng trên 110 ha; hằng năm đều xây dựng Phương án bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng, không để nạn cháy rừng xảy ra trên địa bàn thị trấn. Nhiều hộ gieo ươm cây giống như: cây Keo, Dó, Lòn bon, Măng cụt và các loại cây ăn quả khác,… cho thu nhập cao; giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp tăng bình quân hằng năm 5,1% (vượt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra 0,1%).
Trụ sở chính thị trấn Tiên Kỳ - Tiên Phước
Kinh tế tăng trưởng khá, phát triển đồng bộ, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển chủ yếu là hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp tư nhân,... Số cơ sở thương nghiệp - xây dựng và kinh doanh dịch vụ- thương mại năm 2010 với 693 cơ sở, đến năm 2015 với 769 cơ sở tăng 76 cơ sở, giải quyết cho 1.061 lao động với các ngành nghề như: hàng thủ công mỹ nghệ (Trầm cảnh), cưa xẻ gỗ, xay xát, làm bún, sản xuất nước đá, gò hàn, cơ khí nhỏ và một số cơ sở khác đã giải quyết nhu cầu lao động tại chỗ. Hình thức kinh doanh chủ yếu là cửa hàng đại lý, nhà phân phối, kinh doanh ủy thác,… nhất là các loại hình cung ứng vật tư nông nghiệp được chú trọng phát triển. Các loại hình dịch vụ mới: xe vận tải, xe khách, dạy nghề, công nghệ thông tin, cung cấp máy vi tính, bưu chính viễn thông, xăng dầu, khí đốt, điện nước đáp ứng nhu cầu tăng lên của đời sống xã hội.
Kết quả đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội: đã hỗ trợ sửa chữa, nâng cấp, đầu tư trang thiết bị phục vụ dạy và học tại 3 trường trên địa bàn. Xây dựng nhà làm việc thị trấn; từ ngân sách thị trấn cùng với huy động nhân dân đóng góp đã xây dựng được một số công trình như: mở rộng nhà thôn Phái Đông, nhà khối phố Tiên Bình, sửa chữa nâng cấp nhà thôn An Trung, Bình yên, Phái Bắc,…làm sân bê tông thôn An Đông, Phái Tây, An Trung, tường rào nhà sinh hoạt khối phố Bình Phước, tường rào nhà thôn Phái Bắc,…
Văn hóa - xã hội
Được tập trung chăm lo toàn diện, tạo chuyển biến khởi sắc: Phong trào văn hóa, văn nghệ; TDTT, rèn luyện thân thể được phát động thường xuyên có nhiều hoạt động tích cực, hình thức đa dạng, thu hút được đông đảo nhân dân tham gia. Hoạt động thông tin tuyên truyền đúng định hướng, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, kịp thời đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến nhân dân. Nhiều sự kiện chính trị, ngày lễ, kỷ niệm lớn của đất nước, địa phương được tổ chức long trọng, đạt kết quả cao, có sức lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống xã hội.
Phối hợp với Phòng LĐ-TB&XH huyện tổ chức phiên giao dịch về việc làm, xuất khẩu lao động; khảo sát lao động có nhu cầu đi thực tập kỹ thuật tại Nhật Bản năm 2015-2016: 17 lao động đi xuất khẩu lao động ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaisya... .Công tác xây dựng trường chuẩn, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và nhà giáo, khuyến học khuyến tài, xây dựng xã hội học tập chuyển biến rõ nét, đáp ứng nhu cầu học tập và nâng cao chất lượng giáo dục các bậc học. Hệ thống trường lớp được kiên cố hóa, trang thiết bị phục vụ dạy và học cơ bản đáp ứng yêu cầu. Công tác xã hội hóa giáo dục được chú trọng, học sinh bỏ học giữa chừng giảm đáng kể.
Công tác nhận đỡ đầu trẻ em nghèo, trẻ mồ côi, khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được cán bộ và nhân dân đồng tình hưởng ứng; Hoạt động nhân đạo, từ thiện đạt được nhiều kết quả. Cán bộ và nhân dân trong thị trấn luôn phát huy truyền thống tương thân tương ái, đã tham gia đóng góp, hỗ trợ, giúp đỡ người nghèo, nạn nhân chất độc da cam và các đối tượng khó khăn góp phần đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn. Các tổ chức hội xã hội như Hội chữ thập đỏ, Hội Người cao tuổi, Hội Khuyến học, Hội Tù yêu nước, Từ thiện, TNXP, Nạn nhân CDDC, Hội Người Mù…chú trọng xây dựng củng cố phát triển mạng lưới, tổ chức các hoạt động thiết thực, khắc phục khó khăn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, chăm lo đời sống hội viên và góp phần phát triển KT-XH địa phương.
Kết quả thu, chi sách
Thực hiện tốt chủ trương phân cấp, giao chỉ tiêu ngân sách theo kế hoạch ngay từ đầu năm, tăng cường trách nhiệm của các ban, ngành, đoàn thể trong việc quản lý gắn với nhiệm vụ chi đảm bảo kế hoạch hằng năm. Tổng thu ngân sách của thị trấn 5 năm qua đạt 35,35 tỷ đồng (đạt 157,4%) ( trong đó thu ngân sách thị trấn là 492,892 triệu đồng (đạt 192,31%); thu các khoản nghĩa vụ nhà nước 220,4 triệu đồng (đạt 105,38%); tổng chi ngân sách 5 năm 34,28 tỷ đồng (đạt 112,9%); Trong năm 2016, tình hình thu NSNN ước 6.414.567.809 đồng đạt 133,2% so với kế hoạch, giảm 8% so với cùng kỳ 2015, tổng Chi ngân sách: ước 5.558.490.372 đồng đạt 115,14% kế hoạch, giảm 4% so với cùng kỳ 2015. Việc thực hiện các khoản thu, chi ngân sách có hiệu quả, tiết kiệm, dành một khoản kinh phí nhất định để trang bị phương tiện làm việc như máy vi tính, bàn ghế, tủ tài liệu; làm bê tông sân UBND thị trấn; sửa chữa và nâng cấp nhà sinh hoạt cộng đồng thôn, khối phố,…
Các công trình, kết cấu hạ tầng quan trọng hiện có:
Chạy qua địa phận thị trấn Tiên Kỳ có 02 con đường chính: Quốc lộ 40B ( tỉnh lộ ĐT614 cũ) nối quốc lộ 1A từ thành phố Tam Kỳ lên huyện Tiên Phước và Bắc Trà My; Đoạn đường nhựa từ đốc Đá Đen ở Phái Đông đến cầu Sông Tiên dài 6 km; Tỉnh lộ ĐT 614 từ thị trấn Tiên Kỳ đến xã Tiên Châu dài khoảng 3 km.Trung tâm thị trấn được nối liền các thôn bằng hai đường quốc lộ 40B và tỉnh lộ 614, các con đường nông thôn nối thôn xóm với các đường quốc lộ 40B, ĐT, ĐH đã được bê tông hóa GTNT dài 17 km với chiều rộng từ 1,5 m- 4,5 m tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại, giao lưu kinh tế và văn hóa của nhân dân.
Ảnh con sông Tiên Kỳ
Hệ thống thủy lợi tương đối phát triển, giải quyết tương đối tốt nguồn nước phục vụ sản xuất, thị trấn có 2 hồ chứa thủy lợi là Hố Quờn và Đồng Chùa dung tích chứa mỗi hồ dưới 1triệu m3 nước, diện tích tưới khoảng 20ha; 01 trạm bơm La Ngà và 01 trạm trung chuyển Phước An phục vụ sản xuất hơn 30ha và một số Đập dâng như: Ồ Ồ, Ba gà, Suối Kỷ cùng với một số đập thời vụ khác, đảm bảo nước tưới trên 10 ha ruộng lúa
Tổng chiều dài kênh mương trên địa bàn thị trấn gần 10km, trong đó đã được bê tông hóa hơn 3km; số còn lại là kênh đất nên hằng vụ bị xói lở, bồi lấp, thất thoát nước trong việc điều tiết, vận hành.UBND thị trấn quản lý các công trình thủy lợi, thành lập 2 tổ thủy nông hoạt động thường xuyên; tổ thủy nông số 1 tại đập hố quờn, đập Ồ Ồ; Tổ thủy nông số 2 tại trạm bơm La Ngà, trạm trung chuyển và Đồng Chùa.